c nhưng cảm giác toàn thân như bị cuốn chặt. Chân tay động đậy chạm ngay vào cái gì đó cứng nhắc. Tôi gang81het61 sức đẩy cái vật lạ đó đi mà không tài nào đẩy nổi, lấy lại bình tĩnh, thử làm lại nhưng vẫn vô ích: tôi bị nhốt trong một cái thùng gỗ. Nhưng thực sự thì là cái gì? Thùng gỗ hay quan tài, cùng lúc đó sực lên cái mùi thối rữa. Chính là cái mùi mà sáng nay tôi vừa ngửi thấy. Cái giá sách, tôi đang bị nhốt trong giá sách. Toàn thân tôi nổi da gà, dựng tóc gáy, tim đập thình thịch, tất cả hình ảnh đáng sợ bao trùm lên suy nghĩ hoảng loạn của tôi.
Tôi bị nhốt trong tủ sách! Chính cái tủ sách đấy!
Tôi gồng hết sức mình, muốn thoát ra khỏi nơi đây. Nhưng trong cái tư thế chật chội này tôi thật là lực bất tòng tâm. Sự hoang mang hơi thở gấp gáp vang đi vọng lại trong cái tủ sách chết tiệt này! Cứu tôi! Cứu tôi với!
Tôi gào thét mà không thấy cổ họng mình phat1 ra bất cứ thứ âm thanh nào. Xung quanh vẫn chỉ là một màn đêm đen kịt. Ngoài cảm giác chật chội và thứ mùi hôi thối này ra tôi không còn một cảm nhận gì nữa. Trong cơn hoảng loạn tôi mới thấm cảm giác yếu mềm khi xưa. Một cận bé tám tuổi vùng vẫy trong nước mà không có cách nào tìm lại được thăng bằng. Trong mênh mang biển nước làm tôi thấm thía được thế nào là tuyệt vọng.
Cuối cùng cũng tỉnh thật, lần này là tỉnh lại thật. Tôi chưa bao giờ thấy biết ơn vì đã tỉnh lại như lần này. Gượng dậy bật đèn, tôi không kìm nổi mình thở phào nhẹ nhõm, cũng không dám ngủ tiếp nữa. Nhìn lên đồng hồ, mới ba giờ sáng, vậy mà tôi tưởng như mình đã bị nhốt trong cái giá sách đó cả mấy ngày mấy đêm rồi. Trông bộ dạng của tôi chẳng khác gì vừa được vớt từ dưới nước lên. Toàn thân ướt đẫm mồ hôi, vớ được cái khăn lau qua cái mặt mà tim vẫn thình thịch sợ hãi. Mở cửa ra tôi định đi tắm một cái thì nghe trên ban côn có tiếng sột soạt, ngay lập tức tôi nghĩ đến cái giá sách ma quái kia. Tôi chạy cuống cuồng về phòng, tắm cũng chẳng dám đi nữa. Cứ như vậy mà qua một đêm.
Cuối cùng trời cũng sáng, tôi yên tâm hơn một chút mà ngủ. Sau một đêm mệt nhọc đặt người xuống, tôi như một hòn đá. Không còn biết đến cả tiếng Khương Phượng gõ cửa nữa.
Khương Phượng ngủ dậy, đã mười giờ rồi mà rõ ràng tối qua cậu ấy đã đặt đồng hồ. Đặt buổi sáng chín giờ, cái đồng hồ cổ lỗ ngày nào cũng phải lên dây cót mới kêu. Nhưng âm thanh của nó thì to vô cùng. Mấy người cùng phòng đã mấy lần gạ gẫm đổi chác với cậu ấy đều bị cậu chàng từ chối.
“Đây là món đồ kỉ niệm từ ngày bố mẹ tôi yêu nhau nó rất ý nghĩa với tôi.” Khương Phượng nói thêm.
“Đồng hồ báo thức mà không kêu thì đánh thức mọi người sao nổi?”
Sáng ngày hôm đó đồng hồ không hề kêu để đánh thức Khương Phượng làm cậu ấy không khỏi cáu bẳn. Lẽ nào đã đến lúc nó dở chứng.
“Mày chỉ thỏ đến đây thôi sao?”
Tính cầm cái đồng hồ đi sửa thì mới thấy là nó đã biến mất. Nó không còn ở dưới gối nữa rồi. Cái này thì lạ này: Khương Phượng nhớ rõ ràng là tự tay mình để đồng hồ dưới gối tối qua, trong lúc mê man cữa quậy đầu anh vẫn chạm vào nó cơ mà. Sao giờ này lại không thấy nữa? Tìm kỹ rồi vẫn không thấy đâu, bò cả xuống xem dưới gầm giường cũng không có. Anh ta tìm đến Trần Hồ Huy cùng phòng hỏi han. Thì câu trả lời là không biết. Hỏi đến cả hai người cùng phòng bên cũng chẳng có ai biết gì cả. Lúc này Vương Nhuệ cũng hậm hực nói rằng mình bị mất đôi tất. Cậu thề rằng vừa lấy đôi tất sạch ra vắt lên thành ghế bên cạnh giường, giờ thì không thấy.
Chỉ một đêm đầu đến nhà mới mà đã mất hai món đồ, thật là lảm người ta tức quá đi. Mọi người cùng bới tung mọi ngóc ngách nhưng chẳng thấy tăm tích gì. Khương Phượng để ý đến cánh cửa phòng tôi vẫn khóa im lìm.
Vương Nhuệ nói “Có lẽ nào hôm qua chúng ta cười nhạo anh ta nên anh ta trút giận trả thù chúng ta chăng?”
Trần Hồ Huy lắc đầu, nói rằng tôi cũng không đến nỗi nhỏ mọn vậy, hơn nữa nếu đã vậy thì giáu cái gì chứ giấu đôi tất thì chẵng bõ.
Nếu là tôi “Chí ít thì cũng phải cái điện thoại.”
Mọi người đều thấy câu nói này không vô lý. Khương Phượng không cam tâm vẫn muốn tim tôi hỏi lại cho ra ngô ra khoai. Nhưng gõ cửa thế nào cũng không thấy trong phòng có động tĩnh gì cả, chỉ vọng ra tiếng ngày ngủ nên anh ta đành bỏ đi.
Khương Phượng bất lực than vãn “Anh ta ngủ thật như một con lợn!”
Tôi ngủ một mạch đến chiều. Các đồng sự ai vào chỗ người đấy bật máy lên làm việc hết rồi. Gần đây chúng tôi có vài vụ làm ăn nhỏ, làm một bộ thiết kế về chuyện tranh anh hùng. Nhà sách yêu cầu là phải theo phong cách Nhật, việc cũng chẳng gấp nếu không bị mất mấy ngày dọn nhà. Vì thế chúng tôi phải gấp rút hoàn thành kế hoạch. Giờ mới dậy tôi không tránh khỏi ngượng ngập vì lười biếng. Ăn qua loa ít bánh mì và sữa, chào hỏi các đồng nghiệp, Khương Phượng dợi người đến là hỏi ngay việc mất món đồ, nhưng tiếc là hỏi gì tôi cũng không biết.
Khương Phượng chửi thề “Cái quỷ quái gì đang diễn ra?” rồi không nói gì thêm nữa.
Đồng hồ và tất cũng chẳng đáng giá gì mất rồi thì thôi. Nhà có ma! Trong lòng tôi vẫn thấy rờn rợn nghĩ đến chuyện đêm qua và âm thanh từ ban công vọng lại. Lẽ nào vẫn liên quan đến giá sách. Tôi định nói với Khương Phượng nhưng lại ngại bị anh ta chế giễu, chẳng nói ra nữa, giữ trong lòng vậy. Khương Phượng mua một cái đồng hồ mới, Vương Nhuệ đổi đôi tất khác, mọi chuyện như chưa hề diễn ra. Hoắc Hà gợi ý, biết đâu ngày mai đồng hồ lại kêu lên ở đâu đó.
Khương Phượng chẳng lấy gì làm vui vẻ, nói “Mỗi lần lên dây cót chỉ dùng được một lần.”
Tôi cũng không còn mơ thấy ác mộng nữa. Mỗi ngày chỉ biết trấn an mình. Xem có ai bị mất đồ thêm nữa không, nhưng ba ngày liên tiếp không có chuyện gì xảy ra cả, xem ra cái đêm hôm mất đồ chỉ là một sự tình cờ, mà cũng có lẽ tại hai người họ nhớ nhầm, lẫn lộn lung tung. Tôi do đó cũng an tâm hơn. Công việc cũng thuận lợi đi đến thành công. Đối tác rất vui vẻ và hẹn sau nữa tháng sẽ thanh quyết toán hết, mọi việc diễn ra thật tốt đẹp. Thế mà qua được vài hôm lại bị mất đồ, lần này là chai nước hoa của Trần Hồ Huy. Hoắc Hà mới làm quen được với một cô gái trên mạng hôm nay là buổi đầu tiên hẹn hò nhưng anh ta có một nhược điểm là cơ thể nặng mùi. Sợ khiến cô bé ấn tượng không tốt.
Trần Hồ Huy “Tôi có một lọ nước hoa vẫn chưa dùng”
Lấy đưa Hoắc Hà dùng mà đi cưa cẩm. Nhưng đến lúc tìm thì không thấy. Trần Hồ Huy sững sờ.
“Rõ ràng tôi để trong ngăn kéo, hôm dọn nhà vẫn thấy ở đây, giờ biến đâu mất rồi”. Hoắc Hà cũng tìm giúp mà không thấy nên đành đi không vậy. Tối Hoắc Hà nhăn mặt trở về: buổi gặp mặt có vẻ không như mong đợi. Đám chúng tôi không nhịn nổi lại bàn tán về món đồ mất tích.
Khương Phượng giáo đao “Mấy hôm trước chúng ta không biết mất đồ mà rất có thể là do mất những thứ không hay sử dụng nên mọi người không ai để ý, bây giờ mọi người cùng xem xét kĩ lại.”
Lục lọi đồ đạc mới phát hiện còn mất thêm vài món đồ nữa, Khương Phượng bị mất cái đĩa CD mà cậu thích nhất. Hoắc Hà mất cái bưu thiếp quan trọng. Vương Nhuệ cũng thấy thiếu thiếu món đồ gì đó.
Họ hỏi đến tôi “Tôi, tôi bị mất một bên hoa tai!”
Tất cả chúng tôi họp lại đều cảm thấy ở đây rất kỳ lạ, đến giờ phút này vẫn chưa thấy mất tiền, cũng không mất đồ gì giá trị. Nhưng tức một nỗi đó đều là những món đồ đã và đang dùng đến. Chúng tôi ai cũng bị mất thứ gì đó. Đấy là cả sự vô lý. Những lúc bình thường sơ hở phòng không có ai đã đành nhưng đợt này vì vẻ Soho cả bọn ở nhà cả ngày có ai đó dám lấy đồ đi ngay trước mũi chúng tôi.
Hoắc Hà nói “Hay gặp phải ai đó tâm lý biến thái cố tình dựng chuyện?”
Hà vốn dĩ thích đọc chuyện trinh thám nên có việc gì xảy ra là nghĩ ngay đến điều không bình thường.
Vương Nhuệ cũng “Có thể là con vật gì đó thích tha những món đồ nhỏ đi giấu đâu đó, ví dụ chim, khỉ hay đại loại như thế”.
“Có thể lắm chứ, có người trong lòng biến thái nuôi một con chim, hay khỉ chuyên đi ăn cắp vặt của chúng ta.”
Khương Phượng giọng pha chút tức giận.
“Con chim hay con khỉ đó nó còn có thể tàng hình, có thể vào nhà qua khe cửa bảo vệ, hay có thể mở cánh cửa vào nhà mà không bị chúng ta phát hiện”. Nói đến đây, chúng tôi càng thấy ông chủ căn nhà này rõ ràng là người không bình thường. Lắp cái cửa bảo vệ gì mà thô kệch, kỳ cục, xấu xí, lưới bảo vệ nhỏ tí, kín mít mà có tận ba cái khóa!
Khương Phượng hỏi tôi “Vương Thổ, cậu có ý kiến gì không?”
Tôi nghe ngóng một lúc lúng túng trả lời “Tôi cũng chẳng biết nữa, cũng chẳng biết sao lại mất đồ nữa.”
Khương Phượng không tò mò nhìn tôi “Cậu có sao không? Sắc mặt có vẻ không khỏe?”
“Tôi… tôi hơi đau dạ dày, tôi về nằm nghỉ một lúc”, nói xong tôi đứng dậy về phòng. “Có cần uống thuốc không?” nghe Trần Hồ Huy gọi với theo.
Nhưng tôi chẳng nghe rõ anh ta nói gì cả, cứ thế đóng cửa lại. Vì sao có mỗi tôi là không mất đồ? Tôi nằm vật trên giường mà toàn thân thấy toát mồ hôi hột. Những việc này có liên quan đến tôi chăng? Tôi có một linh cảm có cái gì đó đang làm hỗn loạn suy nghĩ của mình như có ghềnh đá ngăn dòng chảy của nước, ngăn dòng suy nghĩ của tôi, làm tinh thần tôi không yên. Nhưng tôi cũng không sao làm tan biến nỗi ám ảnh đó được, cái cảm giác miên man này thật sự là đau khổ. Mà tôi đang sợ hãi cái gì? Trước lúc ngủ tôi mới nghĩ ra điều gì đã bám đuổi làm tôi bất an trong suốt thời gian qua. Giá sách! Có liên quan đến cái giá sách.
Hai ngày sau đó, đồ đạc của năm người họ vẫn cứ lần lượt mất tích. Mà tôi thì vẫn cứ không mất gì. Tôi cũng đã mấy lần muốn mở cái ngăn tủ của giá sách ra kiểm tra, không hiểu vì sao nhưng đúng là tôi không có cái gan đó. Nhưng cái giá sách đó cuối cùng cũng bị mở ra. Ngày hôm đó, điện thoại di động của Hoắc Hà bị mất. Chiếc Nokia 3230 vừa mới mua được hai tháng, nếu mà mất thì thật là làm người ta quá xót xa. Hoắc Hà liên tiếp bấm gọi vào số điện thoại của anh ta: không tắt máy. Cả đám bọn tôi tìm loạn cả phòng, căng hết cả tai lên nghe ngóng. Vương Nhuệ nghe thấy nhạc chuông “Trư Bát Giới cõng vợ” từ trên ban công vọng xuống. Cả nhóm chạy lên ban công nghe cho rõ ràng. Âm thanh đó đúng là từ cái giá sách vọng ra. Hoắc Hà dập máy phi lên ban công, vẻ phẫn nộ đạp mạnh vào cửa tủ. Nào có nghĩ rằng cái tủ cũ mèm này lại chắc chắn đến vậy, nó không có hề hấn vết tích gì. Thế mà suýt chút nữa đã làm cho chân của Hoắc Hà gãy rồi. Trần Hồ Huy lên cậy cánh cửa ra, chiếc điện thoại vẫn sáng nhấp nháy báo có cuộc gọi nhỡ. Dưới chiếc điện thoại nào là đồng hồ, tất, nước hoa và tất cả. Đầy đủ những thứ mà mọi người mất trong suốt thời gian vừa qua. Đúng là cái giá sách quỷ quái!
Tôi như quay cuồng giơ tay bám vội vào tường. Đồ đạc đã tìm lại, mọi người từ đó cũng vui lên nhiều. Cũng chẳng ai để ý đến tôi không hề vào tủ lấy đồ bị mất. Tôi nhẹ cả người. Vấn đề tiếp theo là nghiên cứu làm sao mà đồ đạc của chúng tôi chui vào trong cái tủ đó được. Lần này thì chính Khương Phượng lại phủ nhận ý kiến lần trước của mình.
“Cũng thật lạ lùng, lẽ nào có con vật gì đó thích lấy những món đồ vặt vãnh này đem đi giấu?”
Vương Nhuệ “Có lẽ nào là chuột? Có lẽ trước đây ông già chủ nhà thích huấn luyện chuột tha đồ?”
Trần Hồ Huy “Nhưng mà đồ đạc cũng để cả trong ngăn kéo nữa cơ mà, chuột thì làm sao mà tha ra được?” Tranh luận cả ngày mà chưa tìm ra cách giải thích nào hợp lý cả.
Hoắc Hà đột nhiên vỗ vào đầu một cái “Tôi nhớ ra một câu chuyện nhưng không dám chắc là có liên quan đến chuyện của chúng ta.” Hoắc Hà bắt đầu kể về hai nhà thám hiểm Nam Cực bị bão tuyết bao vây trong căn nhà tránh bão, mỗi ngày phải thay phiên nhau đứng bên ngoài phát tín hiệu cấp cứu. Nhưng tuyết to gió lớn, nên cũng chẳng có ai đến cứu họ cả. Mà người phụ trách phát tín hiệu cầu cứu lại bị sốt, càng ngày càng suy nhược. Buổi sáng ngày hôm đó, một trong những nhà thám hiểm tỉnh dậy phát hiện ra người bạn đồng hành của mình đã qua đời. Anh ta chỉ còn biết chôn bạn mình dưới tuyết. Rạng sáng ngày hôm sau, nhà thám hiểm mở mắt thấy bạn mình ngồi trên ghế, trong tư thế phát điện báo cứu viện. Nhà thám hiểm rất kinh ngạc. Nhưng vui mừng vì bạn mình vẫn chưa chết. Thế nhưng khi lại gần mới thấy đó chỉ là cái xác lạnh toát. Nhà thám hiểm thấy kinh hoàng nhưng không hiểu vì sao anh ta lại mang cái xác đi chôn. Đến ngày thứ ba, cái xác đó lại hiện ra vẫn với dáng vẻ cũ. Những ngày sau ngày nào cũng vậy, mỗi khi thức dậy nhà thám hiểm đều thấy xác của bạn mình từ dưới tuyết lạnh hiện về, ngồi trên ghế. Cũng không lâu sau nhà thám hiểm đó như phát điên đã dùng súng tự bắn vào đầu mình. Vương Nhuệ nghe xong câu chuyện còn nhếch mép cười.
Khương Phượng thấy thế làm tò mò gặng hỏi. “Sao lại vậy, sao cái xác co1the63 tự chui ra khỏi quan tài?”
Hoắc Hà im thin thít nửa ngày rồi mới nói “Nói cho mà nghe, đó là do chính nhà thám hiểm đó bị mộng du. Ban ngày thì chôn cái xác đó nhưng đêm đến bắt đầu mộng du, ra đào cái xác đó lên. Đặt ngồi vào ghế. Do chính anh ta dọa tâm thần anh ta đó chứ.”
Khương Phượng há hốc “Ồ, cậu định nói trong số chúng ta có người bị bị mộng du, đem đồ giấu trong tủ?”
Hoắc Hà lắc đầu “Do chỉ là một cách nghĩ mà thôi, chẳng ai có thể đảm bảo. Nhưng chúng ta bây giờ đã biết đạo tặc là cái giá sách này thì từ sau cứ đến thẳng đây mà lấy đồ là được rồi.”
Trần Hồ Huy nói “Cũng không thể như thế mãi được. Tôi nghĩ căn nhà này thực sự có điều bí ẩn, chúng ta phải báo án?” Mọi người nghe thấy bào công an đều ngạc nhiên.
Khương Phượng liếc anh ta một cái “Báo án gì? Có việc cỏn con thế cũng báo án? Thế cậu nghĩ cảnh sát nhàn nhã không có việc gì làm mà đi phá những vụ án như thế này à? Đợi một thời gian nữa, chúng ta thu thập thêm thông tin xem sao”. Về phòng mình, tôi lại mốt hồn mất vía đứng sững sờ nửa ngày mà chẳng biết nên làm gì. Mộng du? Hay tôi chính là kẻ bị mộng du đấy? Tối hôm đó, tôi lại mơ thấy chuyện về cái giá sách nó như mọc thêm bốn cái chân đi đi lại lại trên ban công, rồi vào phòng của mọi người rất tự nhiên lục lọi đồ đạc.
Vài ngày trôi qua. Mọi người dần cũng quen với cuộc sống mất đồ hàng ngày. Vì chỉ cần mở cửa tủ ra là thấy. Hoắc Hà đưa ra ý kiến đem bán hay chôn cái giá sách đó đi cho rồi.
Khương Phượng phản đối “Thế nếu chúng ta lại mất đồ thì đi đâu tìm? Kẻ lấy đồ quen giấu đồ trong giá sách rồi vậy thì chúng ta cứ theo thế đi.”
Mà nhất là khi mà năm người chúng tôi bây giờ có thói quen mới. Thói quen hàng ngày đoán xem món đồ gì đang giấu trong đó. Cũng có lúc trong tủ xuất hiện cả những món đồ rất lâu không được nhìn thấy, không được dùng đến. Do đó cũng có nhiều điều ngạc nhiên thú vị. Khương Phượng đã từng tìm thấy cái ví cũ từ thời là sinh viên. Cô người yêu đầu tiên đã tặng anh món đồ kỉ niệm. Sau khi hai người đã chia tay. Khương Phượng đã đem đốt hết những đồ mà người yêu tặng, chỉ còn có chiếc ví là anh luyến tiếc giữ lại. Hồi ức về một thời trai trẻ đã qua như sống lại. Anh ta có vẻ buồn buồn, buổi tối kéo tất cả chúng tôi đi nhậu. Đến đây cái tủ có vẻ không còn là nỗi phiền muộn của chúng tôi nữa. Mà nó như một thứ gia vị của cuộc sống. Vương Nhuệ đùa vui, nhưng mà cái giá sách này vẫn chưa thần thông quảng đại đến độ nếu biết mọi người tìm kiếm cái gì thì đem thứ đó giấu vào bụng thì tiện hơn bao nhiêu. Nhưng nó có một điểm không tốt đó là cái mùi thum thủm, cái mùi mà như thể bị chôn vùi vài chục năm dưới đất, cũng đã dùng đủ mọi cách khử mùi mà không tài nào hết nổi. Cũng chỉ có tôi không thích cái giá sách đó, nhưng không phải vì từ trước đến giờ tôi không bị mất đồ. Mà vì tôi không sao quên được đôi mắt của bức tượng gỗ ấy. Tuy rằng trong thâm tâm đã hơn một nghìn lần, hơn một vạn lần tôi an ủi mình.
“Chỉ là hoang tưởng, hoang tưởng, sự thật là đôi mắt đằng đằng sát khi cũng chỉ là tưởng tượng.”
Thật ra điều mà làm tôi không yên còn có cả cơn ác mộng hàng đêm. Trông đêm tối, trong không gian chật hẹp, cảm giác của một con người co quắp là gì? Như là ở trong quan tài, mà cũng phải để người ta được duỗi thẳng tay chân chứ? Từ trước đến giờ tôi không hề nghĩ mình bị hội chứng khủng hoảng kinh dị. Nhưng kể từ cái đêm ác mộng và sau đó có mê lại vài lần như thế nữa tôi bắt đầu nghĩ mình đã mắc phải bệnh khủng hoảng tinh thần. Trong mơ lúc thì tôi bị nhốt trong thùng sắt, lúc thì bị ấn trong mấy giặt, lúc còn bị nhét trong tủ lạnh. Toàn là những nơi mà nhét con người vào thì quả là hãi hùng. Có lần tôi còn phát hiện ra mình bị nhốt trong máy tính, trước màn hành máy tính có một người lạ. Người lạ đó đang làm gì với cái bàn phím và mấy cái giắc cấm mà không hề để ý đến dấu vết và tín hiệu của tôi. Ấy nhưng tôi không hề mơ thấy cái giá sách nữa. Tôi cũng chẳng lấy thế mà an tâm mà vẫn lo lắng rằng có ngày cái giá sách sẽ lại xuất hiện há hốc nuốt chửng tôi vào trong. Trước lúc ngủ tôi đã buộc một bên cánh tay mình vào cạnh giường. Tự kiểm tra xem có phải mình đang mê.
Sáng dậy dây vẫn còn nhưng tôi vẫn không yên tâm, sợ rằng tự mình đã tháo dây ra, sau khi mê man lại dậy buộc lại. Cũng tựa như câu chuyện của Hoắc Hà đấy thôi. Tôi trốn đi bệnh viện kiểm tra xem thật sự mình có bị bệnh tật gì không? Kết quả kiểm tra là tôi hoàn toàn bình thường. Đã thế thì tôi cũng mặc. Muốn ra sao thì ra.
Ở đây được hai tháng, chúng tôi thu về một khoảng lợi nhuận ai nấy đều rất vui nên đã quyết định đi chơi đâu đó hai ngày để thay đổi không khí. Lên mạng tìm ra một nơi phong cảnh đẹp mà cũng không xa thành phố lắm. Ở đó hít thở không khí trong lành và thư giãn tinh thần rất hợp.
Ở hai ngày trong nhà gỗ giữa rừng, chúng tôi phóng tầm mắt ngắm hoa lá vô tận, non xanh nước biếc. Sắp phải về thì chúng tôi nghe được tin sạt núi nên bị tắc đường. Tạm thời đường chưa thông. Năm người chúng tôi không ngần ngại: đã vậy thì chơi thêm vài ngày!
Khương Phượng vỗ tay xuống bàn “Hôm nay nướng thịt dê ngủ ngoài rừng!”
Nửa đêm, chúng tôi ngồi bên đống lửa nướng thịt dê. Vì không có kinh nghiệm nên thịt chúng tôi nướng không bị cháy thì sống. May mà có đống lửa không thì chơi mất vui, vả lại ăn uống giờ này cũng không còn quan trọng nữa rồi. Hoắc Hà mang theo cây đàn ghita. Tiếng đàn hòa với chất giọng eo éo của năm đứa chúng tôi chẳng khác bầy chom cho lắm. Ăn chơi mệt rồi, gào thét mệt rồi, uống cạn hết sạch bia rồi mỗi người chui vào một cái túi ngủ trông giống hệt như cái bánh chưng. Tôi uống hơi nhiều bia, thấy nặng nặng đầu mà người thì bay bay, nhắm mắt cái là ngủ. Một lúc sau tôi lại ngửi thấy cái mùi hôi thối ấy. Tôi lại bọ nhốt trong giá sách? Ngay lập tức tôi choàng tỉnh, thử cử động tay chân. Đúng thật, tôi đúng lại bị nhốt trong giá sách thật. Mà lạ thật đến bây giờ vẫn còn cái mùi thối rữa. Tôi để ý thấy như có cái gì đó mềm mềm, nhơn nhớt, lông lá ngay b